TT - GDP của VN năm 1990 chỉ bằng GDP của Thái Lan những
năm 1960. Đến năm 2069 mới bắt kịp năng suất lao động của Thái Lan.
|
Bộ Kế hoạch - đầu tư vừa trình
Chính phủ báo cáo thực trạng và giải pháp nâng cao năng suất lao động của Việt
Nam. Theo đó, năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2014 đạt 74,7 triệu
đồng/lao động, tăng 4,9% so với năm 2013. Bình quân giai đoạn 2005-2014 tăng
3,7% mỗi năm.
Mặc dù năng suất lao động của VN
trong những năm qua đã được cải thiện đáng kể, tuy nhiên giả định VN và một số
nước vẫn duy trì liên tục tốc độ tăng trưởng năng suất lao động trung bình như
trong giai đoạn 2007 - 2012 thì phải đến năm 2038 VN mới bắt kịp năng suất lao
động của Philippines, đến năm 2069 mới bắt kịp năng suất lao động của Thái Lan.
81,8% lao động
chưa
được đào tạo
Giải thích cách tính năng suất
lao động, TS Hồ Đình Bảo (thành viên nhóm nghiên cứu về “Tăng trưởng năng
suất lao động VN của Đại học Kinh tế quốc dân) nói năng suất lao động xã hội
(VND/lao động) là chỉ tiêu phản ánh hiệu suất làm việc của lao động, thường
tính bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) trên tổng số người làm việc bình
quân (năng suất lao động = GDP/tổng số người làm việc bình quân). Ở đây Bộ Kế
hoạch - đầu tư tính bằng GDP bình quân 1 lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm
việc.
|
Đáng chú ý là nếu so với Trung
Quốc và Ấn Độ, năng suất lao động của VN tăng chậm hơn. Cụ thể, vào năm 1994
năng suất lao động của VN thấp hơn Trung Quốc 1,3 lần, đến năm 2013 lên 2,8
lần, giữa Ấn Độ và VN tăng từ 1,6 lần lên 1,7 lần.
Tương tự, tính theo sức mua
tương đương, chênh lệch giữa năng suất lao động của Trung Quốc và VN tăng từ
771 USD năm 1994 lên 9.545 USD năm 2013, giữa Ấn Độ và VN từ 1.396 USD lên
3.867 USD.
Bộ Kế hoạch - đầu tư đưa ra hàng
loạt yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lao động của VN. Trong đó, xét về cơ cấu
kinh tế thì các ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, nhất là những ngành dịch
vụ mang tính chất “động lực” hay “huyết mạch” của nền kinh tế như tài chính,
tín dụng, còn chiếm tỉ trọng thấp so với các nước trong khu vực.
Tỉ trọng lao động khu vực nông,
lâm nghiệp và thủy sản hiện nay còn khá cao (năm 2014 chiếm 46,3%) và cao hơn
so với các nước trong khu vực. Phần lớn lao động làm việc trong khu vực này là
lao động giản đơn, có tính thời vụ, việc làm không ổn định, nên giá trị gia tăng
tạo ra không cao, dẫn đến năng suất lao động thấp. Khu vực này có tới trên 46%
lao động của cả nước nhưng chỉ tạo ra 18,1% GDP.
Cũng theo Bộ Kế hoạch - đầu tư,
cả nước có 9,6 triệu lao động được đào tạo trong tổng số 52,7 triệu lao động từ
15 tuổi trở lên có việc làm năm 2014 (chiếm 18,2%).
Lao động được đào tạo bao gồm
những người đã học và tốt nghiệp ở một trường lớp đào tạo chuyên môn kỹ thuật
của cấp học hoặc trình độ đào tạo tương đương thuộc hệ thống giáo dục quân dân
từ 3 tháng trở lên, như vậy có tới 81,8% tổng số lao động chưa được đào tạo để
đạt trình độ chuyên môn kỹ thuật nào đó.
“Điểm nghẽn”
và
“rào cản”
Một trong những yếu tố ảnh hưởng
quyết định tới năng suất lao động là thể chế kinh tế và hiệu quả quản trị nhà
nước, Bộ Kế hoạch - đầu tư nêu rõ VN đã có nhiều nỗ lực thực hiện cải cách và
hoàn thiện thể chế kinh tế. Tuy nhiên, vẫn còn một số “điểm nghẽn” và “rào cản”
về thể chế trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường.
Trong cải cách hành chính, còn
nhiều thủ tục không hợp lý, phức tạp, gây khó khăn cho doanh nghiệp và người
dân.
Thời gian thực hiện một số thủ
tục hành chính tuy đã giảm, nhưng vẫn còn cao so với mức trung bình của các
nước ASEAN-6. Đơn cử trong năm 2014, thời gian nộp thuế (không bao gồm thời
gian nộp bảo hiểm) của doanh nghiệp đã giảm được 290 giờ, từ 537 giờ/năm xuống
còn 247 giờ/năm, nhưng còn cao hơn nhiều mức bình quân 121 giờ/năm của các nước
ASEAN-6.
Môi trường kinh doanh và năng
lực cạnh tranh tuy có bước cải thiện nhưng vẫn thấp so với các nước trong khu
vực.
Theo báo cáo của Diễn đàn kinh
tế thế giới, năm 2014 chỉ số năng lực cạnh tranh của VN xếp hạng 68 trên 144
nền kinh tế và còn khoảng cách khá xa so với Singapore (thứ 2), Malaysia (20)
hay Thái Lan (31), Philippines (52).
Bộ máy hành chính còn cồng kềnh,
đầu mối trực thuộc Chính phủ tuy đã giảm nhưng bộ máy bên trong các bộ, tổng
cục còn chưa giảm. Chất lượng và năng lực đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp
ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, hội nhập.
Về quản trị nhà nước, tuy có
nhiều nỗ lực trong cải cách hành chính, hệ thống pháp luật, trách nhiệm giải
trình, quản lý chi tiêu công... nhưng vẫn còn hạn chế so với các nước trong khu
vực.
Xếp hạng các chỉ số quản trị
toàn cầu (WGI) do Ngân hàng Thế giới xây dựng cho thấy vị trí của VN so với các
nước trong khu vực ASEAN là tương đối thấp và ít có sự thay đổi trong giai đoạn
2000 - 2013.
Một công ty da giày trên đường
Trần Đại Nghĩa, huyện Bình Chánh (TP.HCM) thông báo tuyển dụng lao động ngày
8-10 - Ảnh: Thanh Tùng
|